Đình làng Tri Chỉ nằm ở thôn Tri Chỉ xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, cách thành phố Vĩnh Yên 10km. Theo quyết định số 460/ QĐ-BT ngày 18 tháng 03 năm 1996, Bộ Văn hóa Thông Tin đã cấp bằng di tích lịch sử cấp quốc gia cho đình làng Tri Chỉ.
Trong cuốn ngọc phả của đình hiện đang lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Nhân văn Quốc gia có ghi: Đình Tri Chỉ thờ Khoan Khoáng đại vương. Tương truyền, Khoan Khoáng là con của một thầy địa lý quê ở Thanh Hóa và bà Nguyễn Thị Hằng ở trang Hổ Kỳ (xã Đồng Văn). Khi đó, đất nước ta đang nằm dưới ách thống trị của nhà Lương. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân ta với quân Lương ngày càng trở nên trầm trọng. Các cuộc đấu tranh, giành quyền tự chủ nổ ra liên miên, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo (đầu thế kỉ thứ VI). Lý Bí là người văn võ song toàn, có lòng yêu nước thương dân; ông biết liên kết với những người có tài, có khí phách. Vì vậy quân xâm lược đô hộ rất sợ và ráo riết truy lùng ông. Lý Bí phải trốn từ Long Hưng (Thái Bình) lên Long Biên (Hà Bắc), rồi lại lên Gia Ninh (Vĩnh Phúc). Tại đây ông chọn chùa Diến Táo ( Đạo Đức – Bình Xuyên) làm nơi liên lạc với hào kiệt bốn phương. Lúc này, Khoan Khoáng đã đến tuổi trưởng thành, liền triệu tập binh sỹ gia nhập nghĩa quân của Lý Bí tại chùa Diến Táo. Nghĩa quân tổ chức công kích ở nhiều địa phương đánh đuổi quân Lương giành được nhiều thắng lợi. Trên đà thắng lợi, nghĩa quân tiến về vây hãm và giải phóng thành Long Biên. Được tin Long Biên mất, nhà Lương vội đem quân xuống tiếp viện nhưng tới nơi bị đánh đại bại. Nghĩa quân chiếm luôn cả ái Châu và án Châu. Sau hai lần chiến thắng, Lý Bí vững tin ở lực lượng của mình, chuyển sang củng cố chính quyền trên đất Giao Châu. Đầu năm 544, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế (Lý Nam Đế) niên hiệu Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân. Khoan Khoáng đã có công lao to lớn, giúp nhà tiền Lý đánh đuổi quân Lương xâm lược, nên nhân dân trong vùng đã dựng đền thờ phụng.
Hàng năm, vào mùng 10 tháng 09 âm lịch nhân dân trong làng tổ chức lễ hội, với đầy đủ cả phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm có các lễ vật của người dân mang đến thờ cúng Khoan Khoáng đại vương. Phần hội dân làng tổ chức bơi thi ở ao đình. Buổi tối có tổ chức nhiều tiết mục văn nghệ đặc sắc với sự tham gia của đông đảo người dân trong vùng.
Đình làng Tri Chỉ không còn ghi lại được chính xác thời gian khởi dựng. Đình được xây dựng trên một khoảng đất bằng phẳng, với diện tích trên 1.000 m2, ba mặt được bao bọc bởi một dải ao làng, bốn mùa soi bóng tre xanh. Sân đình lát gạch vuông, trồng xen kẽ những cây nhãn lớn, nhìn từ xa đình làng như ẩn mình dưới những vòm lá sum xuê. Đình quay về phía tây nam, có kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm 5 gian đại bái, 2 gian hậu cung với tổng diện tích là 278 m2. Mái lợp ngói mũi hài, với 4 đầu đao cong vút theo cách tạo dáng truyền thống của đình làng người Việt, thể hiện đầu rồng vươn cao hướng vào trong, phía dưới được trang trí như cánh sen mở ra phía trước. Phần kiến trúc cổ của đình, trải qua thời gian nhưng vẫn còn tương đối chắc khỏe, tất cả có 22 cột gỗ không sơn màu và được bào trơn, đánh bóng. Các cánh cửa được chạm trổ hết sức công phu, làm theo kiểu bức bàn 6 cánh sơn son thếp vàng. Hiện nay, đình làng còn bảo lưu được khá nhiều mảng chạm trổ lớn bằng gỗ tạo nên giá trị khoa học và thẩm mỹ. Căn cứ vào kỹ thuật đục chạm và các họa tiết thể hiện trên gỗ, có thể đoán được đây là các bức chạm thuộc thế kỉ thứ XIX, dưới triều Nguyễn. Dù ở dưới các dáng vẻ khác nhau, ở vị trí nào, đề tài duy nhất của các bức chạm vẫn là tứ linh (long, ly, quy, phượng). Nhìn chung, kiến trúc đình Tri Chỉ tương đối đồ sộ, bề thế, phù hợp với tính chất và yêu cầu của một ngôi đình làng. Đó là nơi thờ tự linh thiêng, nơi gửi gắm tâm linh và cũng là ngôi nhà chung của cộng đồng làng xóm.
Đình làng Tri Chỉ còn giữ được nhiều di vật có giá trị:
Di vật gỗ gồm có: một cỗ ngai thờ sơn son thếp vàng, cao 1,40 m, một cỗ kiệu bát cống không còn nguyên vẹn chỉ còn hai đòn cái, hai đòn nhỡ, và hai đòn con trang trí hình rồng và các hoa văn cách điệu. Một cây quán tẩy cao 0,8m tạo dáng hình long cuốn thủy và các hình lục lăng, thân rồng uốn khúc lao từ trên xuống miệng há rộng hút nước. Bẩy cây nến phao, 4 cây lớn cao 0,9m sơn son, 3 chiếc nhỏ cao 0,4m. Một sập thờ bốn mặt được trang trí chạm thủng, hoa lá cách điệu. Mâm xà gồm 4 chiếc được trang trí khác nhau với các hình lưỡng long chầu nguyệt, rồng chầu chữ thọ. Chín đài nước sơn son vẽ thếp tứ linh, 2 lộc bình gỗ, 1 vòm sắc, 3 bức đại tự.
Di vật bằng đồng gồm có: 2 lư hương cao 0,55m, trang trí hình lưỡng long chầu nhật, sóng nước, hoa văn trên lư hương có đề chữ “Cung tiến đình” hai bên có 2 chữ “Tri Chỉ”. Một đỉnh đồng cao 0,32m, trên có đắp con sư tử ngồi chầu, xung quanh khắc hoa văn. Bốn cây nến phao đồng cao 0,5m có dáng hình nón cụt. Một chiêng đồng kiểu chiêng núm có đường kính 0,5m.
Di vật bằng đá gồm có: 2 bia đá, bia hậu cao 0,5m, rộng 0,35m, ghi tên những người công đức góp phần xây dựng đình. Bia thứ 2 cao 0,7m, rộng 0,5m khắc chữ cả 2 mặt.
Đây là toàn bộ di vật của đình được giữ lại từ xưa đến nay, có giá trị thẩm mỹ và quý của ngôi đình.
Đình Tri Chỉ đã trải qua nhiều lần trùng tu, lần đại tu lớn nhất vào năm 2009, nâng cấp toàn bộ phần mái và mặt tiền. Hiện nay, đình to hơn trước, có kiến trúc như ban đầu xây dựng, chính quyền địa phương đã lập ra ban bảo vệ và tu tạo di tích gồm 7 người cao tuổi nhất trong làng.
Ngày nay, Đình làng Tri Chỉ là điểm văn hóa tâm linh, được người dân địa phương giữ gìn và bảo tồn xứng đáng là di tích lịch sử quốc gia./.
Đỗ Yến – XTDL